Lịch sử hoạt động Curtiss_P-36_Hawk

Anh Quốc

Không quân Hoàng gia Anh, giống như nhiều nước khác, bày tỏ mối quan tâm đến kiểu máy bay này. Việc so sánh một chiếc Hawk 75A-2 mượn từ Pháp với một chiếc Supermarine Spitfire Mk I cho thấy Hawk có nhiều ưu điểm so với những phiên bản đầu của chiếc máy bay tiêm kích Anh. Hawk có những cần điều khiển nhẹ hơn chiếc Spitfire ở tốc độ trên 480 km/h (300 mph), đặc biệt là khi tấn công bổ nhào, và cũng dễ cơ động hơn trong không chiến nhờ bánh lái độ cao ít nhạy cảm cũng như tầm nhìn chung quanh tốt hơn. Hawk cũng dễ điều khiển cất cánh và hạ cánh. Không ngạc nhiên là, khả năng gia tốc rất tốt và tốc độ tối đa cao của Spitfire cho nó ưu thế tham chiến và rời bỏ theo ý muốn.

Mặc dù người Anh quyết định không mua, chẳng bao lâu sau họ sở hữu 229 chiếc Hawk do việc chuyển hướng những chuyến giao hàng đến Pháp đã bị Đức chiếm đóng, và những chiếc do phi công Pháp đào thoát bay đến. Nó được đặt tên Mohawk I đến IV, tương đương các kiểu Pháp Hawk 75A-1 đến A-4, và được gắn súng máy Vickers K cỡ nòng 0,303 in. và cần ga động cơ loại thông thường (đẩy tới để tăng ga). Vì đã lạc hậu so với tiêu chuẩn của chiến trường Châu Âu, 72 chiếc Mohawks được gửi cho Không quân Nam Phi, và nhiều chiếc phục vụ tại Ấn ĐộMiến Điện.

Vào tháng 4 năm 1941, chính phủ Ấn Độ đặt mua 48 chiếc Hawk 75A gắn động cơ Cyclone sẽ được Hindustan Aircraft lắp ráp. Chiếc máy bay đầu tiên ráp tại Ấn Độ bay lần đầu ngày 31 tháng 7 năm 1942. Bốn chiếc nữa hoàn tất trước khi chương trình bị hủy bỏ. Những máy bay do Ấn Độ lắp ráp được sáp nhập vào Không quân Hoàng gia Anh như là kiểu Mohawk IV. Tương tự, những chiếc Hawk 75A-5 do Trung Hoa chế tạo nhượng quyền cũng được chuyển đến Ấn Độ và sáp nhập thành Mohawk IV.

Argentina

Argentina mua một số máy bay Hawk 75O kiểu đơn giản có càng đáp cố định (dự định sử dụng cho những đường băng dã chiến và dễ bảo trì) cũng như mua bản quyền sản xuất kiểu máy bay này. Họ sau đó sản xuất khoảng 200 máy bay kể từ năm 1940. Hawk phục vụ tại Argentina cho đến năm 1954.

Bồ Đào Nha

12 chiếc Mohawk của Anh được chuyển đến Bồ Đào Nha, sau khi chúng trở nên lạc hậu trong Không lực Anh.

Brazil

Tháng 3 năm 1942, 10 chiếc P-36A của Không lực Lục quân Mỹ được chuyển sang Brasil.

Đông Ấn thuộc Hà Lan

Vào tháng 10 năm 1939, chính quyền thuộc địa Đông Ấn thuộc Hà Lan (Indonesia ngày nay) đặt mua 24 chiếc Hawk 75A-7 gắn động cơ Cyclone 1200 mã lực, trang bị 4 súng máy 7,7 mm (2 khẩu trước mũi và 1 khẩu trên mỗi cánh) và có thể mang 2 bom 100 cân. Những chiếc máy bay tiêm kích này được giao hàng vào năm 1940 (và suýt được chuyển sang Hà Lan khi họ bị Đức xâm chiếm) và được dùng rộng rãi chống lại sự tấn công của Nhật. Tuy nhiên, cho đến lúc đó những chiếc máy bay đã được bay nhiều giờ và động cơ đã hao mòn.

Những chiếc Hawk Hà Lan phục vụ trong Phi Đội 1, Không Đoàn IV (1-VlG IV, Vliegtuiggroep IV) của Không quân Hoàng gia Đông Ấn Hà Lan và một ít trong Không Đoàn V. Nó hoạt động tại Malakka, SumatraJava, ném bom thành công một đường tàu hỏa và ngăn chặn các máy bay ném bom. Nó cũng tham gia rộng rãi các trận không chiến trên bầu trời Surabaya, khi máy bay của Mỹ, Anh và Hà Lan cùng chống lại máy bay tiêm kích và ném bom Nhật.

Hoa Kỳ

Những chiếc P-36A sản xuất đầu tiên được giao cho căn cứ không quân Barksdale FieldLouisiana vào tháng 4 năm 1938. Lịch sử hoạt động ghi nhận nhiều vấn đề về thoát hơi động cơ, biến dạng mặt ngoài khi hạ cánh, điểm yếu trên khung máy bay, làm giới hạn tính năng hoạt động của máy bay. Khi những vấn đề này được giải quyết, P-36 bị xem là đã lạc hậu và được chuyển cho các đơn vị huấn luyện và những đơn vị biệt phái ra nước ngoài tại căn cứ không quân Albrook Field trong vùng Kênh đào Panama, căn cứ Elmendorf FieldAlaska, và căn cứ Wheeler FieldHawaii. Cuộc chiến duy nhất có máy bay P-36 Mỹ tham gia là trong Trận chiến Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Chỉ có 4 trong tổng số 39 máy bay có thể cất cánh trong cuộc tấn công và bắn rơi 2 máy bay ném bom Nakajima B5N Nhật, là chiến công không chiến Mỹ đầu tiên trong Thế Chiến II.

Iran

10 chiếc Hawk 75A-9s được giao hàng cho Iran, nhưng bị người Anh bắt được khi còn trong kiện hàng trong vụ Anh-Liên Xô xâm chiếm Iran. Chúng được Không lực Anh sử dụng tại Ấn Độ dưới tên Mohawk IV.

Na Uy

Na Uy đặt mua 24 chiếc Hawk 75A-6s gắn động cơ Twin Wasp, trong đó 19 chiếc đã được giao và 7 chiếc đang lắp ráp vào lúc Đức xâm chiếm Na Uy. Chưa có chiếc nào sẵn sàng để chiến đấu. Những máy bay chưa lắp ráp bị vô hiệu bởi một nhân viên hải quan, khi anh phá hủy các thiết bị và cắt đứt mọi dây điện trong tầm tay. Những chiếc Hawk Na Uy bị Đức chiếm được là một phần của lô hàng giao cho Phần Lan. Sau này Na Uy cũng đặt mua 36 chiếc Hawk 75A-8s gắn động cơ Cyclone, đa số (30 chiếc) được giao cho một căn cứ huấn luyện Na Uy (được thành lập bởi chính phủ Na Uy lưu vong tại London đặt tên là "Tiểu Na Uy") gần Toronto, Ontario, Canada, và dùng làm máy bay huấn luyện nâng cao. Sau này, chúng được bán lại cho Mỹ dưới tên P-36G.

Peru

Năm 1943, Mỹ gửi 28 chiếc Hawk đến Peru theo thỏa thuận Cho Thuê-Cho Mượn. Chúng là những chiếc P-36G nguyên của Na Uy và đã hoạt động tại Canada.

Pháp

Curtiss H75C-1

Ngay từ trước khi P-36A được đưa vào sản xuất, Không quân Pháp đã tiến hành thương lượng với Curtiss để được giao 300 chiếc, nhưng kết thúc gần như thất bại vì chi phí sản xuất chiếc máy bay tiêm kích Curtiss đắt gấp đôi kiểu Morane-Saulnier MS.406Bloch MB.150 của Pháp, và lịch giao hàng xem ra quá chậm. Không lực Lục quân Mỹ cũng không hài lòng với tốc độ giao hàng trong nội địa, tin rằng việc xuất khẩu sẽ làm chậm hơn nữa, nên tích cực chống lại việc bán hàng. Sau này, chỉ do sự can thiệp trực tiếp của Tổng thống Mỹ lúc đó Franklin Roosevelt, phi công thử nghiệm Pháp Michel Detroyat mới có cơ hội bay thử nghiệm chiếc Y1P-36.

Sự hăng hái của Detroyat, những sự cố của chiếc MB.150, và kèm theo đó là áp lực do Đức tiếp tục đẩy mạnh công việc tái vũ trang thúc đẩy Pháp cuối cùng mua 100 máy bay và 173 động cơ rời. Những chiếc Hawk 75A-1 đầu tiên đến Pháp vào tháng 12 năm 1938 và hoạt động từ tháng 3 năm 1939. Sau những mẫu đầu tiên, máy bay được gửi đến bằng linh kiện rời và được lắp ráp ngay tại Pháp bởi Cơ quan Quốc gia Lắp ráp Hàng không miền Trung. Đặt tên chính thức là Curtiss H75-C1, nó được lắp động cơ Pratt & Whitney R-1830-SC-G 900 mã lực (671 kW) với các đơn vị đo hệ mét, ghế ngồi trang bị dù Pháp, cần ga động cơ kiểu Pháp vốn hoạt động ngược lại máy bay Anh và Mỹ (tăng ga bằng cách kéo ra sau hơn là đẩy ra trước) và vũ khí gồm 4 súng máy 7,5 mm. Máy bay cũng trải qua nhiều cải tiến, và cho đến khi Pháp bị Đức chiếm đóng, có 291 chiếc Hawk 75A đang hoạt động trong Không quân Pháp.

Ngày 8 tháng 9 năm 1939, máy bay của Phi Đội II/4 ghi được chiến công bắn rơi 2 chiếc Messerschmitt Bf 109-E của Không quân Đức (Luftwaffe), chiến công không chiến đầu tiên của Đồng Minh trong Thế Chiến II ở mặt trận phía Tây. Trong những năm 1939-1940, Pháp công bố có 230 chiến công xác nhận và 80 chiến công có thể khác do Hawk 75 bắn rơi so với chỉ có 29 chiếc bị mất trong không chiến. Trong số 11 phi công "Ách" Pháp trong giai đoạn đầu của chiến tranh, có bảy người bay Hawk. Người dẫn đầu là Trung úy Marin La Meslee với 15 chiến công xác nhận và 5 chiến công có thể. Các phi đội trang bị H-75 đã rút sang Thuộc địa Pháp Bắc Phi để tránh bị Đức bắt giữ trước khi có Thỏa thuận Đình chiến Pháp-Đức. Phục vụ trong Chính phủ Vichy Pháp, những đơn vị này đánh nhau với máy bay Anh trong Trận Mers el-KébirTrận Dakar. Trong Chiến dịch Torch ở Bắc Phi, H-75 của Pháp giao chiến với F4F Wildcat của Hải quân Mỹ, bị mất 15 máy bay so với 7 máy bay Mỹ bị hạ. Từ cuối năm 1942, Đồng Minh bắt đầu tái trang bị các đơn vị Pháp thuộc Vichy trước đây nhưng chuyển sang Phong trào Pháp Tự Do, và những chiếc H-75 được thay bằng kiểu P-40P-39.

Phần Lan

Sau khi Pháp thất thủ, Đức đồng ý bán những chiếc máy bay tiêm kích Curtiss Hawk tịch thu được cho Phần Lan vào tháng 10 năm 1940. Tổng cộng có 44 chiếc được bán trong ba đợt từ 23 tháng 6 năm 1941 đến 5 tháng 1 năm 1944. Không phải tất cả những chiếc máy bay đều từ dự trữ của Pháp, mà trong đó có cả những chiếc bán cho Na Uy bị chặn trên đường vận chuyển khi Đức chiếm đóng Pháp. Những máy bay này được ký hiệu từ CU-551 đến CU-585.

Khi phục vụ tại Phần Lan, Hawk được ưa chuộng và được gọi tên lóng là Sussu ("Người Yêu"). Không quân Phần Lan có được thắng lợi với kiểu máy bay này, ghi được 190 1/3 chiến công bởi 58 phi công trong những năm 1941-1944. Phi công "Ách" Phần Lan Kyösti Karhila ghi 13¼ trong số 32 chiến công của anh trên chiếc Hawk, trong khi phi công "Ách" lái Hawk cao điểm nhất K. Tervo ghi được 15¾ chiến công. Hawk phục vụ trong Phi Đội 32 Không quân Phần Lan trong suốt thời gian chiến sự.

Hawk Phần Lan được trang bị 4 hoặc 6 súng máy 7,5 mm đủ mạnh trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Tiếp Diễn, nhưng tốc độ cao hơn và vỏ giáp của máy bay Xô Viết dần cho thấy vũ khí trên là không đủ mạnh. Từ năm 1942, Xưởng Máy bay Quốc gia thay những súng máy gắn ở thân bằng 1 hoặc 2 súng máy Colt 12,7 mm và gắn 2 súng máy Browning 7,7 mm lên mỗi cánh. Súng máy hạng nặng 12,7 mm kiểu Berezin UB hoặc LKk/42 cũng được dùng. Việc trang bị vũ khí nặng không làm thay đổi nhiều tính năng bay rất tốt của kiểu tiêm kích này, và vũ khí mạnh hơn nhiều để chống lại máy bay Xô Viết. Hawk của Phần Lan cũng được trang bị ống ngắm bắn Revi 3D hoặc C/12D.

Những máy bay này tiếp tục phục vụ cho đến năm 1948.

Thái Lan

Một ít Hawk 75N được Không quân Thái Lan sử dụng trong cuộc Chiến tranh Pháp-Thái, và cũng được sử dụng trong Trận chiến Prachuab Khirikhan chống lại quân đội Nhật.

Trung Hoa

Kiểu nguyên mẫu Hawk 75H - phiên bản đơn giản có càng đáp cố định giống như chiếc 75O - được bán cho chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, và được tặng cho tướng Claire L. Chennault để dùng vào việc riêng. Trung Hoa cũng nhận được 2 chiếc mẫu tương tự, Hawk 75Q, và họ cũng dùng một số máy bay kiểu đơn giản Hawk 75M để chống Nhật. Chiếc Hawk 75A-5 được sản xuất nhượng quyền tại Trung Hoa, nhưng việc sản xuất sau đó được chuyển sang Ấn Độ, và những máy bay này được sáp nhập vào Không quân Hoàng gia Anh dưới tên Mohawk IV.